Trọn tình hẹn ước Bắc – Nam

Tháng 2/1955, hơn 15 năm sau ngày cưới, ông bà lại tạm xa nhau. Không như các đợt ông thực hiện công tác cách mạng trước đó, đi đi về về có lâu ngày đến mấy thì cũng chỉ trong phạm vi tỉnh Bình Định. Lần chia tay này theo lời động viên tập kết thực hiện Hiệp định Geneve của Đảng và Bác Hồ, bà đem 4 đứa con ra hẳn miền Bắc xa xôi; còn ông ở lại tiếp tục chiến đấu, giữ vững cơ sở cách mạng trong lòng địch.

Ngày lên đường, bà dắt tay đứa con gái thứ ba mới 5 tuổi, ẵm con bé út chưa đầy năm; cả ba đến điểm tập trung tại cảng Quy Nhơn, rồi được đưa lên tàu Kilinski (Ba Lan). Hai người con còn lại không đi cùng bà; con trai đầu 15 tuổi và con gái thứ hai 13 tuổi đã tập trung riêng theo từng khối học sinh miền Nam. Dạo ấy, bà nghĩ chỉ tạm xa 2 năm thôi, gia đình sẽ lại hội ngộ cùng nhau. Sau mấy ngày lênh đênh trên biển, trong con tàu vận tải khổng lồ chở niềm tin và hy vọng của bao người, bà và các con đến Thanh Hóa – nơi được bố trí làm điểm đón tiếp bà con tập kết trong Nam ra. Cả gia đình đã thư đi tin lại; ông biết được con mình đã vào trường học sinh miền Nam ở Nghệ An, Thanh Hóa, vợ mình đang học để làm y tá; các con cũng nhận được những lời động viên “con học giỏi, đừng làm nũng má” từ cha mình. Nhưng…

Bà làm sao có thể ngờ được, chia tay mới năm trước thì năm sau bà nhận tin dữ của chồng. Bà từng mãi trông mong, bến đợi trong lòng bà từng cồn cào dậy sóng, rồi đành nuốt nước mắt vùi xuống để lo cho con, lo cho gia đình. Bà nội, cũng như bao người vợ, người mẹ khác, cũng tảo tần nuôi con và mỏi mòn trông chồng. Ông nội, cũng như bao người chồng, người cha khác, cũng biến nhớ nhung thành hành động để mong ngày toàn thắng. Nhưng…

Nhưng 2 năm đã thành 20 năm. Từ 1955 mà mãi đến năm 1975, sau ngày đất nước thống nhất, sạch bóng quân thù, gia đình mới có thể về quê. Suốt 20 năm đó, bà và các con vẫn nhớ lời ông dặn, phấn đấu học tập, làm việc trong nỗi khát khao chờ ngày toàn thắng. Suốt 20 năm đó, không biết bằng cách nào, trong gian phòng ở điểm tập trung Thanh Hóa, hay căn nhà nhỏ ở khu tập thể 25 phố Bà Triệu (Hà Nội), nơi mà chỉ cần cựa lưng thì người bên cạnh đã giật mình, ấy vậy nhưng bà nội có thể nén chặt tiếng khóc vào lòng. Có lẽ bà đã hy vọng tin báo tử của ông chỉ là nhầm lẫn, rằng ông vẫn đang chiến đấu ngoan cường trong lòng địch. Có lẽ bà đã hy vọng nếu chẳng may, chẳng may ông thật sự hy sinh, thì cũng được hàng xóm láng giềng và đồng đội hương khói đủ đầy. Có lẽ bà hy vọng chiến tranh sẽ sớm kết thúc, để bà còn kịp về quê, để bà còn có dịp gặp ông mà trách “Sao ông để mẹ con tôi chờ lâu mà chẳng có thư”.

Hai mươi năm có thể khiến mái tóc ngả màu, có thể mài mòn ý chí con người. Nhưng với những người con của tổ quốc, những em học sinh miền Nam, những gia đình tạm chia xa vì đất nước, thì 20 năm hay lâu hơn nữa, họ vẫn sắt son chờ ngày giải phóng. Những thổn thức đêm đêm từ cả 2 bờ Nam Bắc sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, dù là người ra đi hay người ở lại thì có bao giờ nguôi ngoai. Tất cả vẫn vẹn tròn một niềm tin vì lời hẹn thề nước non nối liền một dải bên bờ sông năm ấy.

Địa điểm 300 ngày tập kết

Thi hành Hiệp định Geneve, Bình Định có 300 ngày (22/7/1954 – 16/5/1955) để thực hiện việc tập kết các lực lượng vũ trang, chính trị của toàn Liên khu V tại cảng Quy Nhơn và đi bằng tàu thủy ra miền Bắc. Đồng chí Nguyễn Minh Vỹ được Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu V chỉ định phụ trách chỉ huy khu vực tập kết này.

  • Góc nhỏ: Đồng chí Nguyễn Minh Vỹ (1914-2002), tên thật là Tôn Thất Vỹ, thuộc gia đình quan lại Hoàng tộc ở Huế. Lúc tập kết, ông phụ trách Hội đồng tập kết Liên khu V và Quân cảng Quy Nhơn. Ông cũng là Phó Trưởng đoàn đàm phán tham gia Hội nghị Paris kéo dài từ 7/5/1968 đến ngày 27/1/1973 (Trưởng đoàn là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Xuân Thủy).

Ngày 1/8/1954 lệnh ngừng bắn có hiệu lực trên toàn khu vực Nam Trung bộ. Những chuyến tàu đưa đồng bào, cán bộ, chiến sĩ khu vực Nam Trung bộ và Tây Nguyên nhanh chóng di chuyển. Tháng 10/1954, các đơn vị trong khu vực 80 ngày (ở phía Bắc sông Trà Khúc, Quảng Ngãi) rút vào phía nam sông Trà Khúc. Tháng 11/1954, quân ta rút khỏi khu vực 100 ngày (phía Bắc sông Vệ, Quảng Ngãi). Ngày 19/3/1955, các lực lượng trong khu vực 200 ngày (phía Bắc sông Lại Giang, gồm cả An Lão, Bình Định) rút vào Nam sông Lại Giang. Ngày 28/4/1955, ta bàn giao cho đối phương đến bờ Bắc sông La Tinh (Phù Ly). Ngày 12/5/1955, ta bàn giao ở phía Tây đến Đồng Phó, phía Bắc đến Đập Đá. Ngày 16/5/1955, Trung đoàn 803 – đơn vị vũ trang cuối cùng của ta rời bến cảng Quy Nhơn, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tại đây đã có 20.000 người được đưa ra Bắc, trong đó có 10.700 người của tỉnh nhà.

Địa điểm “Cảng Quy Nhơn – Địa điểm 300 ngày chuyển quân tập kết ra Bắc” được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 845/QĐ-UBND ngày 24/12/2007 và Di tích quốc gia theo Quyết định số 1361/QÐ-BVHTTDL ngày 15/5/2025. Cụm tượng đài kỷ niệm được xây dựng năm 2004, ngay ngã 3 Xuân Diệu – Ông Ích Khiêm ở Quy Nhơn.

Chuyến tàu nặng nghĩa tình

Nếu như phía chính quyền Bảo Đại, Ngô Đình Diệm và Pháp được Mỹ hỗ trợ tối đa với hàng trăm chiếc thuyền đưa người vào Nam thì phía ta gặp nhiều khó khăn. Lúc đó, bạn bè quốc tế từ các nước xã hội chủ nghĩa đã lập ra một ủy ban hỗn hợp để đảm nhận việc này. Sau đó, việc thuê tàu và tổ chức chuyên chở được giao cho Công ty vận tải biển Sovfracht của Liên Xô phụ trách. Năm chiếc tàu vận tải hạng nặng được lựa chọn được khẩn trương đưa đến Nhà máy đóng tàu Quảng Châu (Trung Quốc) để sửa chữa, cải tạo, gồm Kilinski của Ba Lan, Arkhangelsk và Stavropol của Liên Xô, Sunny Queen và Sunny Prince của Na Uy. Sau cùng 3 chiếc tàu thủy đến từ Liên Xô và Ba Lan đã lên đường giúp chúng ta vận chuyển người và hàng hóa từ miền Nam ra Bắc. Đó là tàu Kilinski, Stavropol và Arkhangelsk.

  1. Tàu Kilinski (Ba Lan). Tàu mang tên người anh hùng Ba Lan Jan Kilinski (1760-1819), được chỉ huy bởi thuyền trưởng R.Cielewicz. Tàu được làm tại nhà máy đóng tàu ở Los Angeles, California (Mỹ), xuất xưởng năm 1944 và mang cái tên đầu tiên Mexico Victory. Trong thời gian từ tháng 10/1954 đến 7/1955, tàu đã thực hiện 27 chuyến vận chuyển giữa 2 miền, đưa 85.000 người, 3.500 vũ khí các loại, 250 tấn đạn dược ra Bắc. Năm 1973, tàu Kilinski quay lại Việt Nam và đậu tại cảng Hải Phòng gần 1 năm trước khi sáng Đài Loan tháo dỡ thành sắt vụn.
  • Góc nhỏ: Cùng với Ấn Độ và Canada, Ba Lan cũng là 1 trong 3 thành viên của Ủy ban Quốc tế Giám sát và Kiểm soát Hiệp định Geneve. Ấn Độ là Chủ tịch Ủy ban.
  1. Tàu Arkhangelsk (Liên Xô). Đây là tàu thực hiện chuyến tập kết đầu tiên. Từ tháng 10/1954 đến 2/1955, cùng với thuyền trưởng Dmitry Zotov Kirillovitch, tàu đã đi 12 chuyến, chuyên chở hơn 30.000 người và hơn 1.300 tấn hàng.
  2. Tàu Stavropol (Liên Xô). Thuyền trưởng Chernobrovkin đã chuyên chở hàng nghìn người và hàng trăm tấn hàng hóa trong quá trình tập kết. Sau đó, từ tháng 1/1955 chuyển sang chở gạo viện trợ từ Trung Quốc sang Việt Nam.

Thi hành Hiệp định Geneve về việc chuyển quân

Hội nghị Genève về Đông Dương được tổ chức từ 26/4/1954 tại thành phố Genève, Thụy Sĩ để giải quyết 2 vấn đề: chiến tranh tại Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương với đại diện đến từ Việt Nam, Campuchia, Lào, Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ và chính quyền Bảo Đại. Ban đầu, hội nghị chỉ bàn về vấn đề Triều Tiên. Nhưng sau chiến thắng Điện Biên Phủ, việc lập lại hòa bình ở Đông Dương được sớm đưa lên bàn làm việc. Qua 75 ngày đàm phán với 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp cấp trưởng đoàn, Hiệp định được ký vào ngày 20/7/1954.

Cùng với đó, từ ngày 4 – 27/7/1954 diễn ra Hội nghị Trung Giã diễn ra tại Trung Giã (Sóc Sơn, Hà Nội) bàn về các vấn đề do tình hình quân sự cụ thể tại chỗ đặt ra. Thành phần tham gia là Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ Tổng chỉ huy các lực lượng liên hiệp Pháp ở Đông Dương. Hội nghị thống nhất mỗi bên sẽ trở về căn cứ hoặc tập trung ở những vị trí đóng quân tạm thời nhằm tránh mọi sự xung đột có thể xảy ra; và thực hiện lệnh ngừng bắn theo quyết định của Hội nghị Geneve.

Theo đó, ngày 27/7/1954 2 bên đình chỉ chiến sự và đi đến chấm dứt mọi hoạt động quân sự vào ngày 11/8/1954. Các đợt ngừng bắn và rút quân cũng được quy định trong Điều 15 của Hiệp định Geneve. Đợt 1: 80 ngày, quân Pháp ra quân khỏi Hà Nội, quân ta rút khỏi Hàm Tân, Xuyên Mộc (10/10/1954). Đợt 2: 100 ngày, quân Pháp rút khỏi Hải Dương, quân ta rút khỏi vùng Đồng Tháp Mười (31/10/1954). Đợt 3: 200 ngày, quân ta rút khỏi Cà Mau (08/02/1955) và lên tàu từ cảng Cà Mau. Đợt 4: 300 ngày, quân Pháp rút khỏi Hải Phòng và lên tàu từ cảng Hải Phòng, quân ta rút khỏi Nam Quảng Ngãi và Bình Định (ngày 16/5/1955) và lên tàu từ cảng Quy Nhơn.

Ảnh từ trái sang, từ trên xuống: Ảnh 1: Nhân dân Quy Nhơn xem bảng yết thị của Ủy ban giám sát và kiểm soát quốc tế về công tác chuyển quân tập kết. Ảnh 2: Bộ đội tập trung để xuống tàu tập kết. Ảnh 3: Đoàn Ủy ban giám sát và kiểm soát quốc tế (gồm Ấn Độ, Ba Lan, Canada) đến Quy Nhơn để giám sát công tác chuyển quân tập. Ảnh 4: Tàu vận chuyển Kilinski. Ảnh tư liệu.

Kết quả, chúng ta đã đưa 120.000 cán bộ, chiến sĩ và đồng bào tập kết ra Bắc, trong đó khu vực Nam bộ có hơn 70.000 người, Liên khu V hơn 50.000 người, cùng với 500 tấn súng đạn, 600 tấn máy móc, khí tài và 236 xe ôtô các loại. Đặc biệt còn có 7 chú voi Tây Nguyên và một số ngựa thồ. Sau này, khi các tàu Kilinski, Stavropol, Arkhangelsk lên đường về nước, ba chú voi đã được Đảng và Nhà nước ta gửi theo làm quà tặng hữu nghị đến Ba Lan, Liên Xô.

Trước đó, phía ta đã chuẩn bị cho việc tập kết ngay từ khi kháng chiến chống Pháp chuẩn bị kết thúc. Một loạt văn bản đã ban hành như: Điện về việc “Sắp xếp cho một số trường hợp chiến sĩ thương bệnh binh gia đình cán bộ ra Bắc tập kết” (Trung ương Cục miền Nam ngày 11/02/1954); Điện báo cáo về “Cán bộ Miên đến chỗ tập kết để chuẩn bị ra Bắc Việt Nam” (Trung ương Cục miền Nam ngày 09/3/1954); Thông tri về “Sử dụng cán bộ miền Nam ra Bắc” (Ban Bí thư TƯ Đảng ngày 12/3/1954); Chỉ thị về “Tuyệt đối giữ bí mật kế hoạch tổng kết của cán bộ quân dân chính ra Bắc” (Tỉnh ủy Long Châu Sa ngày 08/6/1954); Điện về “Chuyển quân tập kết, lựa chọn cán bộ ra Bắc hoặc ở lại, chọn một số thiếu nhi miền Nam ra Bắc học” (TƯ Cục miền Nam ngày 11/7/1954); Chỉ thị 41 CT/TW “Tập kết quân đội và chính quyền” (TƯ Cục miền Nam tháng 7/1954)… Trong 2 năm 1954-1955, các cấp đã ban hành hơn 20 văn bản lãnh đạo, chỉ đạo liên quan việc tập kết ra Bắc.

-Việt An-

Vui lòng trích nguồn: "An Hằng's blog" khi đăng lại bài của blog này. Cảm ơn các bạn!

2 comments

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *