Rực rỡ sắc màu Katê – Kate plei Cham

Lễ hội Katê hàng năm của đồng bào Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận thường diễn ra vào tháng 10, trong 3 ngày, tức là ngày 30/6 đến 2/7 theo lịch Chăm. Ngày đầu tiên là lễ rước y trang của các vị thần về tại ngôi làng nơi có đền thờ của vị thần đó. Ngày thứ 2  (tương ứng với ngày 1/7 lịch Chăm) là ngày lên tháp, nghĩa là y trang được rước lên tháp và làm lễ tắm, thay trang phục cho tượng thần. Ngày thứ 3 là ngày lễ tại gia đình.

Hiện nay, lễ hội Katê đã được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; trong đó lễ hội của Ninh Thuận theo Quyết định số 2459/QĐ-BVHTTDL ngày 20/6/2017, của Bình Thuận theo Quyết định số 776/QĐ-BVHTTDL ngày 4/4/2022.

Những ngày tết của dân tộc Cham

Với đồng bào dân tộc Cham, một năm có ba lễ hội quan trọng trong năm là Rija Nưgar, Katê và Cambur.

  • Rija Nưgar là tết đầu năm, từ ngày 1/1 lịch Cham (khoảng tháng 4 dương lịch), tương tự như tết Nguyên đán của người Kinh. Đây là tết đón năm mới truyền thống của mọi người dân Cham, hay là lễ hội cầu mưa, đuổi đi những điều xui xẻo để đón nhận sự may mắn, tốt lành của năm mới, cầu cho một vụ mùa canh tác mới bội thu.
  • Lễ hội Katê diễn ra vào đầu tháng 7 lịch Cham (khoảng tháng 10 dương lịch). Kate là lễ hội quan trọng của người Chăm theo đạo Bà la môn, diễn ra trong 3 ngày để mừng một mùa lúa mới và thờ cúng thần linh, gia tiên. Dân gian Chăm có câu “Katé di bingun Cambur di kanem”, nghĩa là lễ Katê được tổ chức vào thượng tuần trăng, còn Cambur là vào hạ tuần trăng.
  • Lễ hội Cambur diễn ra vào 16/9 lịch Cham (khoảng tháng 12 dương lịch) nhằm cúng tế cho các vị nữ thần mà đứng đầu là thần mẹ xứ sở Po Inâ Nâgar (Pô Inư Nưgar).  Ngoài ra, Cambur còn để tưởng niệm tổ tiên, ân đức sinh thành, các vị hữu công khai canh khai cơ làng mạc, thôn xóm và cầu cúng những oan hồn chưa được siêu sinh.

Đền thờ Pô Inư Nưgar ở thôn Hữu Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

Nguồn gốc của lễ hội Kate

Trước đây, Champa chịu sự chi phối nhiều của Ấn Độ giáo. Khoảng thế kỷ 14, Hồi giáo bắt đầu du nhập vào Việt Nam và được người Chăm tiếp nhận. Sau này cộng đồng Champa có 3 tôn giáo chính: Chăm Ahier (theo đạo Bà la môn – Brahmanism – ảnh hưởng từ Ấn giáo), Chăm Awal (theo đạo Bà ni – là đạo Hồi được bản địa hóa từ thế kỷ 17, dưới thời vua Po Rome (1627-1651)), và Chăm Islam (theo đạo Hồi giáo chính thống – du nhập khoảng thế kỷ 20).

Lễ hội Kate là lễ hội của người Chăm Bà la môn và được cho rằng xuất hiện muộn ít nhất là sau thế kỷ 15, hoặc dưới thời vủa Po Rome (1627-1651) ở khu vực phía nam Champa (Panduranga; nếu từ thế kỷ 15 thì có thêm Kauthara). Tuy nhiên ngày nay trong lễ hội Kate cũng có sự tham gia của người Raglai, Chăm Bà ni… nên phạm vi của Kate không còn bó buộc trong một tôn giáo duy nhất.

Các dân tộc khác nhau cùng tham gia lễ hội Kate.

Triết lý âm dương trong lễ hội Kate

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng Kate mang tính dương, hướng đến các vị nam thần là những vị thần mang tính thần thoại; các vị vua công khai phá mở mang bờ cõi, trị vì đất nước và được tôn vinh như thần. Lễ hội cũng được tổ chức ở các đền thờ các vị thần này. Cụ thể hơn, lễ Kate là lễ tế Yang Po Ama, nghĩa là thần Shiva – nam thần của đạo Bà la môn. Đồng thời, theo tín ngưỡng địa phương, còn để tạ ơn các vị thần linh đã phù hộ cho dân tộc Champa, mang lại sự bình yên, hạnh phúc, thịnh vượng cho họ.

Trong khi đó, Cambur mang tính âm, hướng đến Mẹ xứ sở của người Chăm là Thiên Y Ana Thánh mẫu, tên Chăm là Yang Po Inư Nưgar, cùng những vị tiền hiền mang tính địa phương hơn là toàn vương quốc. Vì vậy, trong quan niệm của người Chăm, lễ hội Kate là Tết Cha, hướng đến Thần Cha; còn Cambur là Tết Mẹ, hướng đến Thần Mẹ.

Ngoài ra, Kate được tổ chức vào tháng 7 và Cambur vào tháng 9. Với người Chăm, số 7 là biểu tượng (padah tok) của tính dương thuộc về nam giới. Nó còn thể hiện cho trí tuệ với đầy đủ giác quan của con người trong một cái đầu, cùng với những tri thức cần thiết cho việc chiến đấu. Ngược lại, số 9 đại diện cho tính dương thuộc về phụ nữ. Nó là sự bổ sung thêm 2 bầu sữa, tượng trưng cho dòng suối mát của trực giác và linh cảm, ngọn nguồn của sự sinh sản và nuôi dưỡng nên người.

Mặt hông tháp Po Rome, ngôi tháp thờ vua Po Rome.

Các nghiên cứu thì nói vậy nhưng trong lễ hội Kate tui thấy có các vị thần chính được làm lễ tại đền thờ là Po Klaung Garai, Po Rome, Po Sah Inư và Nữ thần Po Nagar (qua biểu tượng của bà Bhagavati, vợ thần Siva). Tui không giải thích được sự có mặt của Nữ thần Po Nagar trong lễ hội này và rất mong quý vị cho thêm lời giải đáp dưới bình luận. Chân thành cảm ơn.

Không khí đậm chất văn hóa dân gian

Trong lễ hội Kate, thầy hát lễ (Kadhar) sẽ hát những bài hát kể lại truyền thuyết về các vị thần linh, vị thần có công sáng thế (Po Inư Nagar), hoặc có công chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước, dẫn thủy nhập điền để phát triển đất nước (Po Klaung Garai, Po Rome)… Vốn dĩ đây là các thần thoại (damnưi), chuyện cổ tích (dalikal) như kiểu sử thi và cũng là các tác phẩm văn học truyền từ đời này qua đời khác của người Chăm. Khi làm lễ, những bài văn vần thơ này được diễn xướng trong nhịp điệu theo kiểu hát kể, hát nói. Lúc trình diễn còn có sự phụ trợ của tiếng đàn rabap (đàn nhị của người Chăm) và những điệu múa tâm linh.

Phần hội của Kate đương nhiên không thể thiếu sự góp mặt của nghệ thuật ca múa nhạc truyền thống. Đặc biệt, trong chương trình văn nghệ chào mừng lễ hội diễn ra vào ngày rước y trang, bà con sẽ hòa mình trong âm thanh réo rắt của một bộ nhạc cụ đa dạng từ bộ gõ (trống ginang, baranung, cheng), bộ hơi (kèn saranai, tù và), bộ dây (đàn rabap, kanhi), và các loại khác như chiêng, dây chuông lục lạc… Âm nhạc Chăm có một tiết tấu và nhịp điệu rất riêng, không hòa lẫn với vùng miền nào khác trên cả nước. Các điệu múa dân gian mang nét đặc trưng của người Chăm như múa quạt, múa khăn, múa đội lu… đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong lễ hội Kate nói riêng và các hoạt động văn hóa văn nghệ của người Chăm nói chung.

Góc nhỏ: Lịch cổ Chăm

  • Đơn vị đo thời gian của người Chăm phiên theo giờ của người Việt là: vớ – tương đương với khắc, tú – giờ, haray – ngày, có-krao – tuần, pì-làn – tháng, pâl – mùa, thunr – năm.
  • Ngày (haray), giờ (tú), khắc (vớ): Ngày Chăm tính theo mặt trời; từ lúc mặt trời mọc đến khi lặn là 1 ngày, phần còn lại là đêm. Ngày và đêm chia thành 8 , nghĩa là mỗi = (12 giờ / 8 tú)= 1 giờ 30 phút. Mỗi vớ (khắc) = 1/8 . Người Chăm coi cơ thể người là một tiểu thiên địa, mọi bộ phận trên cơ thể đều có mối quan hệ mật thiết với vũ trụ. Vì vậy họ lấy cơ thể người làm chiếc đồng hồ sống để đo giờ giấc. Muốn đo giờ, người ta ngồi xổm, quay mặt về phía mặt trời, giơ thẳng tay và gang bàn tay ra đo. Nếu cứ để thẳng tay như vậy mà đo từ dưới đất lên đỉnh đầu thì sẽ được 8 gang, dù đó là người lớn hay trẻ con. Lấy gang tay làm mốc, nếu mặt trời lên được 2 gang thì đó là giờ thứ nhất, 4 gang là giờ thứ 2. Từ trưa đến chiều thì đo từ đỉnh đầu trở xuống. Thời gian trong lịch Chăm so sánh theo giờ hiện nay một cách tương đối như sau:
Tú tha

(Giờ thứ 1)

Tú tòa

(Giờ thứ 2)

Tú klâu

(Giờ thứ 3)

Tú pá

(Giờ thứ 4)

Tú mư

(Giờ thứ 5)

Tú năm

(Giờ thứ 6)

Tú chú

(Giờ thứ 7)

Tú tà-lỵ-păn

(Giờ thứ 8)

Ngày 6h-7h30 7h30-9h 9h-10h30 10h30-12h 12h-13h30 13h30-15h 15h-16h30 16h30-18h
Đêm 18h-19h30 19h30-21h 21h-22h30 22h30-24h 24h-1h30 1h30-3h 3h-4h30 3h30-6h
  • Tuần (có-krao): Các thứ trong tuần là: Adit (chủ nhật), thôm (thứ 2), angar (thứ 3), but (thứ 4), jip (thứ 5), suk (thứ 6), thanưchăn (thứ 7).
  • Tháng (balan): Lịch cổ Chăm tính tháng theo mặt trăng và tính năm theo vì sao. Mặt trăng quay quanh quả đất mất 1 tháng, ngày bắt đầu có trăng là mùng 1 (ha-rây tha) và tắt trăng là cuối tháng. Mỗi tháng có 29 hoặc 30 ngày và xen kẽ nhau, tháng lẻ (balan tapăk) có đủ 30 ngày và tháng chẵn (balan u) có 29 ngày. Cứ vài năm thì tháng 12 sẽ có đủ 30 ngày và gọi là tháng nhuận (balan u). Tên gọi các tháng: Balan tha (tháng 1), balan dua (tháng 2), balan klau (tháng 3), balan pak (tháng 4), balan lima (tháng 5), balan năm (tháng 6), balan tajuh (tháng 7), balan dalipăn (tháng 8), balan tha lipăn (tháng 9), balan thapluh (tháng 10), balan puis (tháng 11), balan mak (tháng 12).
  • Năm (thunr): Người Chăm tính năm theo sự xuất hiện của sao Tua rua (patuk bangu nung), sao Cày (patuk boh lingal). Sao Rua nở vào cuối tháng 2 Chăm, nên người ta tính lịch sao cho khi sao Rua nở rơi vào cuối tháng 2 thì đó là lịch đúng. Vì thế nếu đến cuối tháng giêng mà sao Rua vẫn còn cao thì có thể không nở kịp vào cuối tháng 2. Lúc đó người Chăm gọi tháng giêng ấy là tháng mới và coi như một tháng thừa của năm trước (balan bhang) và năm có 13 tháng đó là năm nhuận (thunr u). Nếu thời tiết xấu không xem rõ được sao Rua thì sẽ xem sao Cày nở sau sao Rua 1 tháng. Như vậy, một năm Chăm thường có 354 ngày, năm có tháng nhuận có 355 ngày. Cứ 3 năm sẽ có 1 năm nhuận và thêm 29 ngày nữa, nghĩa là 383 ngày (354 + 29 ngày) hoặc 384 ngày (355 + 29 ngày).

Nguồn: Nguyễn Khắc Ngữ (1958), “Khảo cứu lịch Chàm” , Tập san Văn hóa Á châu, số 5, tháng 8/1958.

-Việt An-

Vui lòng trích nguồn: "An Hằng's blog" khi đăng lại bài của blog này. Cảm ơn các bạn!

3 comments

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *