Vũng Rô và huyền thoại tàu không số

Di tích lịch sử tàu không số Vũng Rô được xây dựng ở Bãi Chùa, thôn Vũng Rô, xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên (cũ); nay thuộc xã Hòa Xuân, tỉnh Đăk Lăk. Địa điểm này cách sân bay, đường sắt, đường quốc lộ không xa. Ngày 18/6/1997, nơi đây được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia.

Đường đến Di tích lịch sử tàu không số Vũng Rô: Nằm trên quốc lộ 29, cung đường ven biển đẹp nhất tỉnh Đăk Lăk. Cách trung tâm Tuy Hòa khoảng 30km; còn nếu bạn đi từ Mũi Điện (Mũi Đại Lãnh) thì chỉ khoảng 6km.

Toàn bộ cung đường ven biển thành phố Tuy Hòa đến tận Vũng Rô đều trải nhựa đẹp như thế này.

Giá vé tham quan: miễn phí. Bạn chỉ tốn tiền gửi xe ở đây thôi.

Từ phía biểu tượng của mắt tàu trên đài tưởng niệm nhìn ra nhà trưng bày và bãi đậu xe

Vì sao Vũng Rô được lựa chọn làm bến tàu không số

Cuối năm 1964, chiến trường Phú Yên rất căng thẳng. Tuyến đường chi viện từ Trường Sơn đến các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Đăk Lăk bị ngăn cách bởi các đường 7, 14, 19, 21, nên chiến trường khu 5 gặp nhiều khó khăn. Tháng 5/1964, Tỉnh ủy Phú Yên nhận được lệnh từ Trung ương Đảng giao nhiệm vụ tìm bến bãi cho chuyến tàu không số nhằm tăng cường chi viện vũ khí, quân lực cho khu vực này. Tháng 7/1964, một cuộc họp giữa Thường vụ Liên Tỉnh ủy 3 (Phú Yên – Khánh Hòa, Đắk Lắk) và Phân khu Nam (thuộc khu 5) được tổ chức ở Suối Phần (Hòa Mỹ, Tây Hòa) để bàn phương án.

Vũng Rô ngày nay.

Ban đầu, có 2 địa điểm được cân nhắc làm nơi tiếp nhận tàu không số là vịnh Xuân Đài và vịnh Vũng Rô. Nhưng vịnh Xuân Đài bị loại do địa thế khá trống trải khi nhìn từ trên cao xuống. Trong khi đó, vịnh Vũng Rô nằm cách đường sắt, đường quốc lộ không xa. Vịnh có điều kiện tự nhiên khá hoàn hảo với chiều rộng 1.640 ha mặt nước, sâu 8-10m, có thể tiếp nhận tàu trọng tải trên 5.000 tấn. Ba bề Bắc, Đông, Tây được che chắn bởi núi Đá Bia, Đèo Cả và Hòn Bà nên trong vịnh sóng khá êm. Phía nam có đảo Hòn Nưa án ngữ. Ở đây còn có nhiều bãi nhỏ gồm: bãi Lách, bãi Mù U, bãi Ngà, bãi Chùa, bãi Chân Trâu, bãi Hồ, bãi Hàng, bãi Nhỏ, bãi Chính, bãi Bàng, bãi Lau, bãi Nhãn, phù hợp để trở thành bãi tiếp nhận tàu và hàng hóa. Vừa nằm ven chân núi, vừa có các bãi nhỏ tạo nên địa hình núi non hiểm trở, nhiều hang động, thuận tiện cho việc cất giữ, bảo quản vũ khí trong rừng; đồng thời hình thành các con đường độc đạo để vận chuyển vũ khí về những căn cứ quân sự ở địa phương. Điều đặc biệt quan trọng là vịnh Vũng Rô nằm ngay dưới chân đèo Cả, trong khi trên đèo có 1 trung đội và 4 căn cứ của địch. Cuối năm 1964, địch cũng ra lệnh phong tỏa, cấm tất cả mọi phương tiện ra vào vịnh Vũng Rô. Ngoài ra, các lực lượng phòng giữ của địch từ trên đỉnh đèo Cả, trạm radar ở đỉnh Chóp Chài đến các hạm đội, duyên đoàn ngoài khơi được bố trí dày đặc. Về điểm này, phía ta đã lợi dụng nguyên tắc “Nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn nhất” để chọn Vũng Rô một cách tài tình.

Tượng đài tàu không số ở Vũng Rô với dáng hình con thuyền vươn khơi.

Đồng chí Trần Suyền, UVTV Liên Tỉnh ủy, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên lúc bấy giờ nhận nhiệm vụ tổ chức bến, hành lang, lực lượng bảo vệ để đón tàu vào và tiếp nhận cất giấu, vận chuyển vũ khí, hàng hóa về căn cứ.

  • Góc nhỏ: Người Pháp đã sớm nhận ra vị trí chiến lược của Vũng Rô khi tới Việt Nam. Công sứ Bình Thuận Etienne Aymonier trong cuốn Notes sur l’Annamviết rằng “Vũng Rô là nơi trú ẩn tốt và an toàn nhất trong tất cả các mùa” và “có vị trí chiến lược quan trọng vì nằm ở phía nam đèo Cả”. Ngoài ra, còn có “một ngôi làng của người An Nam cuối Vũng Rô, nơi có nguồn nước ngọt rất tốt”.

Vũng Rô nhìn từ trên cao.

Chuyến tàu không số đầu tiên

Từ cuối năm 1964 đến đầu 1965, Vũng Rô đã tiếp nhận 4 chuyến tàu không số vận chuyển hơn 200 tấn vũ khí, thuốc men từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Phú Yên cũng nhận được hơn 10.000 khẩu súng các loại, 10 tấn đạn dược, thuốc men và 1 tấn thuốc tân dược.

Chuyến tàu đầu tiên số hiệu 41 do thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh chỉ huy cùng 19 cán bộ thủy thủ, chở 63 tấn vũ khí, thuốc men; xuất bến Hạ Long (Quảng Ninh) ngày 22/11/1964 và cập bến Vũng Rô lúc 23h50 ngày 28/11/1964. Trên đường đi tàu gặp không ít hiểm nguy. Lúc đến vùng biển Đà Nẵng thì gặp máy bay trinh sát của địch. Chúng nghi ngờ nên báo vào bờ. Hai tàu tuần tiễu của địch lao ra, kèm song song và chĩa thẳng những nòng pháo 76.2mm về phía tàu 41 (trong khi tàu của ta chỉ có súng 12.7mm). Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh liền ra lệnh treo cờ 3 sọc lên, vắt lưới đánh cá lên, treo cá lủng lẳng trên tàu, giả trang làm tàu đánh cá. Có lúc tàu địch bắn vòng qua tàu ta để dọa và thăm dò lực lượng nhưng ta vẫn án binh bất động. Theo dõi được 1 tiếng đồng hồ mà không thấy động tĩnh gì thêm nên tàu địch bỏ mục tiêu, chạy vào bờ. Đến trưa ngày 28/11/1964, đến hải phận quốc tế ngang vịnh Vũng Rô, tàu lại khéo léo lách qua 3 tuyến phòng thủ của địch để chạy thẳng vào vịnh.

23h50 đêm 28/11/1964, thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh cập bến Bãi Chùa. Tín hiệu nhận nhau giữa tàu và bờ ngày hôm đó là 5 ánh đèn, trong đó tàu phát 5 ánh đèn, tàu phát lại 2 ánh. Tuy nhiên lực lượng ở bờ không lường trước tàu lớn và nhiều vũ khí đến vậy nên phía tiếp ứng không kịp bốc dỡ hết. Thuyền trưởng Thạnh đưa ra quyết định táo bạo nhưng cũng đầy khó khăn là cho tàu ở lại để bốc dỡ tiếp. Trước đó ông cũng đắn đo nếu rạng sáng ngày 29/11, tàu đi ngược ra hải phận quốc tế thì đêm đó có kịp quay trở lại để giao hàng hay không. Và nếu ở lại, nhỡ khi địch phát hiện thì cực kỳ nguy hiểm cho toàn bộ tuyến đường biển này. Cuối cùng, ông quyết định cho tàu ngụy trang xong trước 4h sáng ngày 29/11, đợi đến tối bốc tiếp. Đêm đó tàu vào Bãi Chính, dùng tốc độ cao ủi lên bãi cát để thuận tiện cho việc bốc dỡ. Từ 7h tối 29/11 đến 3h sáng 30/11 thì 63 tấn vũ khí đã được dỡ xong toàn bộ.

  • Góc nhỏ: Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh từng 12 lần tham gia các chuyến tàu không số, trong đó có 3 lần đi về quê hương Phú Yên của mình.

Phía sau tượng đài là phù điêu quân và dân nô nức tiếp nhận vũ khí.

Chuyến tàu không số thứ 2

Chuyến tàu thứ 2 cập bến vào ngày 25/12/1964 do thuyền trưởng Thạnh chỉ huy. Trước đó, trong chuyến đầu tiên, thuyền trưởng Thạnh nghe nói do bị địch kiểm soát gắt gao nên lực lượng ta ở bến thiếu gạo ăn. Vì thế, khi họp chuẩn bị cho chuyến tàu thứ 2, ông đã đề xuất tặng 3 tấn gạo cho bà con ở đây. Vì vậy, cuối năm 1964, ngoài vũ khí và 4 cán bộ chi viện thì còn có 3 tấn gạo tám thơm tặng lực lượng ở bến Vũng Rô.

Phía sau tượng đài là phù điêu quân và dân vận chuyển vũ khí, lên đường chiến đấu.

Chuyến tàu không số thứ 3

Chuyến tàu thứ 3 cập bến Vũng Rô đúng vào giao thừa tết Ất Tị, ngày 31/1/1965 lúc 23h50; vẫn do thuyền trưởng Thạnh chỉ huy. Chuyến tàu này còn mang theo bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành để quân và dân ăn tết. Được sự đồng ý của cấp trên, cán bộ, thủy thủ tàu ở lại cùng lực lượng làm nhiệm vụ tại bến đón tết ngay trên tàu. Trên đầu, phía đèo Cả, pháo địch bất ngờ bắn sáng trời. Dưới tàu, anh em chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Nhưng cùng lúc đó, radio từ buồng báo vụ vang lên tiếng thơ chúc tết của Bác Hồ, mọi người mới nhận ra giờ giao thừa đã điểm.

Chào mừng Ất Tỵ xuân năm mới
Nhà nước ta vừa tuổi hai mươi
Miền Bắc xây dựng đời sống mới vui tươi
Miền Nam kháng chiến ngày càng tiến tới
Đồng bào hai miền thi đua sôi nổi
Đấu tranh anh dũng, cả nước một lòng
Chủ nghĩa xã hội ngày càng thắng lợi!
Hoà bình thống nhất ắt hẳn thành công!

Trong chuyến này, sau khi bốc dỡ hàng xong, lúc tàu chuẩn bị nhổ neo rời bến, cô dân công Nguyễn Thị Tản đã đến gặp và trao cho ông Thạnh một món quà được gói cẩn thận trong chiếc khăn tay: “Bà con Phú Yên xin gửi theo tàu nắm đất Vũng Rô, mảnh đất kiên trung, bất khuất, một lòng theo Ðảng, theo Bác Hồ. Nay có vũ khí của miền bắc chi viện, mảnh đất này sẽ lập nhiều chiến công”. Nắm đất Vũng Rô sau này được trưng bày tại Bảo tàng Hải quân nhân dân Việt Nam (Hải Phòng).

Nơi các tàu từng neo đậu.

Chuyến tàu không số thứ 4

Chuyến tàu không số thứ 4 mang số hiệu C143 do thuyền trưởng Lê Văn Thêm, chính trị viên Phan Bá Đảng chỉ huy, chở hơn 63 tấn vũ khí và dự kiến cập bến Lộ Diêu (Bình Định). Song bị địch bám sát nên tàu phải đổi hướng cập bến Hải Nam (Trung Quốc) trong 10 ngày để tìm thời cơ. Chờ quá lâu mà không thể cập bến Bình Định nên Trung ương quyết định chuyển sang bến Vũng Rô. Lúc 23h đêm 15/2/1965, tàu cập bến Bãi Chùa, Vũng Rô; sau khi vận chuyển vũ khí lên bờ thì phát hiện tời neo tàu bị hỏng, sửa chữa đến 5h sáng mới xong. Không thể rút tàu ra kịp nên quân ta lấy cây rừng, ngụy trang tàu thành mỏm đá nhô lên.

Cùng quãng thời gian này, quân chủ lực của ta phục kích tại chiến trường đèo Nhông – Dương Liễu (Phù Mỹ, Bình Định) và khiến địch tổn thất nặng nề. Do vậy, địch dùng máy bay trực thăng tải thương liên tục từ Quy Nhơn về Nha Trang. Khi bay ngang Vũng Rô, địch phát hiện có vật thể lạ nên bay vòng để kiểm tra nhưng không xác minh được. Địch cho máy bay về và yêu cầu radar trên đèo Cả chụp ảnh lại và so sánh với các ảnh cũ và phát hiện ra. Địch cho máy bay trinh sát bay thấp từ đảo Hòn Nưa và thả bom xăng, phóng rocket vào khu vực này. Phía ta cũng anh dũng chống trả. Đêm 7/2/1965 quân ta chở thuốc súng ra phá hủy tàu nhưng do không có kinh nghiệm nên chỉ khiến tàu gãy làm đôi và chìm xuống biển. Địch chưa kịp tìm hiểu thông tin thì chứng cứ bị hủy. Tức giận, chúng cử hai tiểu đoàn chủ lực bao vây khu vực tàu từ đường bộ xuống đường biển và máy bay đánh phá ác liệt khu vực lân cận.

  • Góc nhỏ: Trận Đèo Nhông – Dương Liễu diễn ra tại Dương Liễu và Đèo Nhông nằm trên Quốc lộ 1, thuộc địa bàn huyện Phù Mỹ (Bình Định), giữa Trung đoàn 2 (tức Trung đoàn An Lão, Sư đoàn 3 Sao Vàng) của Quân Giải phóng miền Nam và 2 tiểu đoàn bộ binh, 1 chi đoàn thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Chiến thắng đèo Nhông – Dương Liễu diễn ra vào ngày mùng 5 tết 1965, tức là ngày 5/2/1965. Đây cũng là chiến thắng mở đầu tiêu diệt lớn sinh lực địch trên chiến trường khu 5, góp phần tích cực cùng quân và dân cả nước đánh bại và làm phá sản hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.

Dấu tích nơi tàu C143 bị đánh đắm.

Những con tàu không số, những con người không tên, nhưng không thể nào quên những dấu ấn lịch sử.

Ngày 23/10/1961, Đoàn 759 vận tải thủy – đơn vị tiền thân Lữ đoàn 125 (Bộ Tư lệnh Hải quân) được thành lập để đáp ứng yêu cầu vận chuyển vũ khí và hàng hóa chi viện cho chiến trường miền Nam. Đến giữa tháng 8/1962, Nghị quyết “Mở đường vận chuyển chiến lược trên biển” được thông qua, hình thành “đường Hồ Chí Minh trên biển”. Để bảo đảm bí mật cho tuyến vận tải đặc biệt này, những chiếc tàu của Đoàn 759 phải cải trang thành tàu đánh cá, không có số hiệu cố định mà đi đến tỉnh nào thì đổi số của tỉnh đó, trà trộn vào những đoàn tàu đánh cá của ngư dân địa phương. Đồng thời đến vùng biển nước nào thì treo cờ nước đó để ngụy trang cho phù hợp với từng điều kiện. Tên gọi “Đoàn tàu không số” ra đời từ đó.

Ban đầu là tàu vỏ gỗ, sau nâng cấp thành vỏ sắt tải trọng lớn từ 50-100 tấn. Đêm 11/10/1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng) chở 30 tấn vũ khí an toàn cập bến Vàm Lũng (Cà Mau) vào ngày 16/10/1962. Sau thành công của những chuyến tàu vỏ gỗ, ngày 17/3/1963, chiếc tàu vỏ sắt đầu tiên đã đến Trà Vinh an toàn cùng 44 tấn vũ khí. Có 19 bến tàu không số trải dài từ miền Trung đến miền Nam.

Suốt từ năm 1962-1975, đoàn 125 huy động được 1.879 lượt tàu thuyền, vượt 4 triệu hải lý, vận chuyển hơn 152.000 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật, thuốc chữa bệnh và hơn 80.000 lượt cán bộ, chiến sĩ từ Bắc vào Nam, trong đó có những cán bộ cao cấp như đồng chí Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh. Không chỉ băng qua hàng ngàn hải lý, vượt hơn 20 cơn bão, các con tàu không số còn chiến đấu hơn 30 lần với tàu địch, đánh trả 1.200 lần máy bay địch tập kích, bắn rơi 5 máy bay và bắn cháy nhiều tàu xuồng của địch. Thế nhưng, để giữ bí mật con đường chiến lược, nhiều tàu buộc phải phá hủy cùng những chiến sĩ vĩnh viễn hy sinh.

Hiện nay, tàu HQ 671 là con tàu duy nhất còn lại trong đoàn tàu không số. Cùng với hành trình tàu không số, HQ 671 đã đi 20 chuyến, vận chuyển gần 400 tấn vũ khí, hàng hóa. Năm 2018, tàu HQ 671 được công nhận bảo vật quốc gia và được trưng bày tại Bảo tàng Hải quân nhân dân Việt Nam ở Hải Phòng.

-Việt An-

Vui lòng trích nguồn: "An Hằng's blog" khi đăng lại bài của blog này. Cảm ơn các bạn!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *