Những năm Tỵ ấn tượng trong lịch sử Việt Nam

Quý Tỵ 208 TCN: Nhà nước Âu Lạc ra đời, Thục phán Thục An Dương Vương là người đứng đầu, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội). 

Tân Tỵ 981: Tháng 2 âm lịch quân Tống tràn vào nước ta “Hầu Nhân Bảo, Tôn Hoàng Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng” (theo Đại Việt sử lý tiền biên). Vua Lê Đại Hành đã phá tan thủy quân giặc do Lưu Trừng cầm đầu ở sông Bạch Đằng, chém tướng Hầu Nhân Bảo ở Bình Lỗ (Sóc Sơn-Hà Nội), phá tan giặc ở Tây Kết (Hà Bắc), đuổi tướng Trần Khâm Tộ bỏ chạy, bắt sống tướng Triệu Phụng Huân và Quách Quân Biện đem về giam ở Hoa Lư. Nhà Tống hoảng sợ phải ra lệnh bãi binh. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần thứ nhất hoàn toàn thắng lợi.

Đền thờ vua Lê ở Hoa Lư, Ninh Bình.

Đinh Tỵ 1077: Dưới triều đại nhà Lý, bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam ra đời trong cuộc kháng chiến chống quân Tống lần thứ hai (1076-1077). Cuối năm 1076 sang 1077 các tướng Tống có nhiều kinh nghiệm trận mạc là Quách Quì (chủ tướng) và Triệu Tiết (phó tướng) đem 10 vạn quân tinh nhuệ, 20 vạn dân phu cùng 10 vạn ngựa chiến tiến vào nước ta. Nhà Lý chủ trương không chặn địch tại biên giới, nhưng cũng không để cho quân địch tiến vào nước ta quá sâu. Thái úy Lý Thường Kiệt cho xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu) và nhiều thế trận phòng bị và tấn công trên cả hai mặt trận trên bộ và thủy. Ngày 18/1/1077, trên sông Như Nguyệt vang lên bài thơ Nam quốc sơn hà, cổ xúy mạnh mẽ tinh thần chống giặc của quân và dân ta. Đến tháng 3 âm, bị tổn thất nặng nề mà không phá vỡ được phòng tuyến của ta, quân Tống phải chấp nhận điều đình và rút quân về  nước.

Kỷ Tỵ 1149: Tháng 2 âm lịch, thuyền buôn 3 nước: Trảo Oa, Lọ Lạc và Xiêm La vào Hải Đông (vùng biển Quảng Ninh) xin được ở lại buôn bán. Vua Lý Anh Tông (1138 – 1175) đồng ý với việc này và cũng cho lập trấn giao thương ở Vân Đồn, mở rộng hoạt động buôn bán đường thủy của nước Việt.

Đinh Tỵ 1257: Chuẩn bị kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ nhất. Vào đầu thế kỷ 13, Thành Cát Tư Hãn sau khi thống nhất Mông Cổ đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc. Năm 1253, Hốt Tất Liệt đánh chiếm vương quốc Đại Lý (nay là tỉnh Vân Nam), tiến đến biên giới nước Việt. Năm 1257, quân Mông Cổ đòi đi qua Đại Việt để từ phía Nam đánh Tống nhưng nhà Trần từ chối. Thấy trước nguy cơ giặc Nguyên, quân dân nhà Trần đã tích cực chuẩn bị kháng chiến. Khu vực các con sông lớn là sông Lô, sông Hồng trở thành vị trí xung yếu nên được chuẩn bị kỹ càng, ngăn khả năng tấn công theo đường thủy của giặc. Ngã ba Bạch Hạc (Phú Thọ) giao giữa sông Lô, sông Đà và sông Hồng nhiều lần được Trần Hưng Đạo chọn là nơi luyện tập thủy quân. Trần Nhật Duật cũng cho đóng đại bản doanh tại Bạch Hạc, chỉ huy lực lượng quân đội, án ngữ vùng Việt Trì. Tháng 10/1257, vua Trần Thái Tông điều quân thuỷ bộ lên biên giới Tây Bắc.

Ất Tỵ 1305: Công chúa nhà Trần là Trần Huyền Trân (1287-1340), con gái Thượng hoàng Trần Nhân Tông với Bảo Thánh Hoàng hậu, được gả cho vua Chiêm thành là Chế Mân (Jaya Sinhavarman III) để đổi lấy 2 châu Ô, Lý.

Quý Tỵ 1473: Tháng 2 âm lịch, vua Lê Thánh Tông ra lệnh cấm uống rượu để hạn chế nạn chè chén say sưa, bỏ bê công việc trong các quan. 

Quý Tỵ 1533: Cựu thần nhà Lê Sơ là Đại tướng quân Nguyễn Kim đưa một người con còn nhỏ tuổi của vua Lê Chiêu Tông là Lê Ninh lên ngôi vua ở Ai Lao (Lào), tức Lê Trang Tông, đặt niên hiệu là Nguyên Hòa, mở đầu sự nghiệp trung hưng. Đây cũng là vị vua đầu tiên và duy nhất trong các vua Việt lên ngôi ở nước ngoài.

Quý Tỵ 1593: Mạc Mậu Hợp, người đứng đầu cuối cùng của nhà Mạc bị chém, cục diện Nam – Bắc triều chấm dứt.

Đinh Tỵ 1857: Tháng 8 âm vua Tự Đức ban hành lệnh cấm đạo. Tư bản phương Tây vin ngay vào lý do này và vua Pháp Napôlêông III thông qua quyết định vũ trang xâm lược Việt Nam.

Kỷ Tỵ 1689: Tháng 6 âm, triều đình Lê-Trịnh đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao nhằm bảo toàn lãnh thổ quốc gia, sai sứ sang nhà Thanh đòi trả lại các châu Bảo lạc, Thủy Vị, Vị Xuyên, Quỳnh Nhai.

Quý Tỵ 1773: Tháng 2 âm lịch, nghĩa quân Tây Sơn đánh chiếm miền Hạ Đạo, Tuy Viên và các vùng lân cận (Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay). Đến tháng 8 âm, nghĩa quân hạ thành Quy Nhơn, tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên hoảng sợ bỏ chạy. Sau khi hạ thành Quy Nhơn, nghĩa quân tấn công liên tiếp các phủ Quảng Ngãi, Diên Khánh, Bình Khang, Bình Thuận.

Bảo tàng Tây Sơn, Bình Định.

Ất Tỵ 1785: Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút của quân Tây Sơn, đánh tan 5 vạn quân Xiêm xâm lược do Nguyễn Ánh cầu cứu mời sang. Ngày 20/1/1785, nhằm ngày 10 tháng Chạp năm Giáp Thìn, trên đoạn sông Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút dài khoảng 6km, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã khiến 4 vạn quân Xiêm bỏ mạng tại trận địa mai phục, số tàn quân còn lại phải tháo chạy lên bờ, trốn sang đất Chân Lạp để tìm đường về nước.

Đinh Tỵ 1821:

  • Tháng giêng nổ ra khởi nghĩa Phan Bá Vành, là cuộc khởi nghĩa nông dân dài nhất (1821-1827), hoạt động khắp các tỉnh ven biển từ Quảng Yên đến Thanh Hóa.
  • Tháng 2 âm, bắt đầu lập Quốc Tử Giám ở Huế.
  • Tháng 4 âm, nhà sử học Phan Huy Chú dâng lên triều đình bộ sách “Lịch triều hiến chương loại chí” gồm 49 quyển, được viết trong 10 năm. Tập sách gồm 10 phần, kể về văn học, ngoại giao, quân sự, lệ luật, thi cử, lễ nghi, tiểu sử nhân vật của Việt Nam thời cổ.

Kỷ Tỵ 1869:

  • Thành lập cơ quan địa chính và tiến hành đo đạc, phân định đất đai ở Nam Kỳ.
  • Nhiếp ảnh bắt đầu du nhập vào Việt Nam, sau 30 năm người Pháp sáng tạo ra công nghệ chụp ảnh.

Ất Tỵ 1905:

  • Phong trào Đông du do cụ Phan Bội Châu khởi xướng, đưa thanh niên Việt Nam sang Nhật học tập, tiếp thu sự tiến bộ để quay về giải phóng đất nước.
  • Ngày 17/3/1905 thông tuyến đường sắt Hà Nội – Vinh.

– Đinh Tỵ 1917: Ngày 30/8/1917, Đội Cấn (Trịnh Văn Cấn) và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo binh lính yêu nước ở Thái Nguyên phá nhà lao, thả tù chính trị, làm chủ thị xã trong 6 ngày.

Kỷ Tỵ 1929: Ba tổ chức Đảng được thành lập gồm: Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (7/1929), Đông Dương Cộng sản liên đoàn (9/1929). Tháng 3, Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam gồm 7 đảng viên: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung, Dương Hạc Đính, Kin Tôn, do Trần Văn Cung làm bí thư chi bộ được thành lập.

Tân Tỵ 1941:

  • Ngày 28/1/1941, qua cột mốc 108, Bác Hồ về Pác Bó (Cao Bằng) sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước.
  • Ngày 25/10/1941 Mặt trận Việt Minh ra đời. Đây là nhân tố quan trọng góp phần vào cuộc thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử năm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân.

 Quý Tỵ 1953:

  • Tháng 11/1953 Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Hội nghị toàn quốc của Đảng đã nhất trí thông qua cương lĩnh ruộng đất và quyết định thực hiện cải cách ruộng đất ở vùng tự do nhằm thực hiện “người cày có ruộng”.
  • Từ giữa tháng 11, bắt đầu triển khai chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, đặt kế hoạch tác chiến trên 4 hướng: Tây Bắc và Thượng Lào, đồng bằng Bắc Bộ, Trung, Hạ Lào và phát triển sang đông Campuchia, Tây Nguyên (Liên khu V). Đây là tiền đề cho chiến thắng Điện Biên “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” vào mùa hè năm 1954.

Ất Tỵ 1965:

  • Chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Đế quốc Mỹ (1965-1968). Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” tại Việt Nam, Tổng thống Mỹ Johnson quyết định chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân đội vào trực tiếp xâm lược miền Nam Việt Nam, đồng thời sử dụng lực lượng không quân và hải quân mở rộng chiến tranh ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ba tháng đầu năm, chiến dịch Mũi lao lửa, Sấm rền được Mỹ liên tiếp tung ra nhằm đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá. Không quân Mỹ xuất kích từ 60 đến 160 lần bay/ngày oanh tạc các mục tiêu quân sự và cơ sở kinh tế ở miền Bắc. Cũng trong 3 tháng đầu năm, quân và dân ta đã bắn rơi gần 300 máy bay, bắn hỏng 7 tàu chiến, bắt nhiều phi công Mỹ. Mỹ không đạt được mục tiêu khuất phục miền Bắc trong vòng vài ba tháng, buộc phải chuyển mục đích chiến dịch từ chỗ “bẻ gãy ý chí miền Bắc” thành “cắt đứt luồng tiếp tế người và hàng hoá từ miền Bắc vào miền Nam”. Vì vậy từ tháng 4/1965 Mỹ tập trung đánh phá cầu cống và nhiều tuyến đường giao thông quan trọng. Ngày 20/7/1965 Bác Hồ ra lời kêu gọi: “Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu, 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”.

Mảnh xác máy bay của Pháp, Mỹ trưng bày tại Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam.

  • Ngày 25 đến 27/3/1965, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp lần thứ 11 quyết định chuyển hướng phát triển kinh tế miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cả nước có chiến tranh. Các phong trào “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, “1 người làm việc bằng 2”… xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền Nam, thực hiện ý chí, một quyết tâm sắt đá của toàn dân tộc “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

 Đinh Tỵ 1977: Ngày 20/9 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 149 của Liên Hiệp Quốc.

Kỷ Tỵ 1989:

  • Chấm dứt tình trạng lạm phát phi mã ở nước ta. Đầu 1989, tỷ lệ lạm phát vẫn ở mức 8%/tháng, nghĩa là lũy kế trên 100%/năm – ở mức phi mã. Ngân hàng nhà nước đã thực hiện chính sách lãi suất thực dương, với lãi suất tiền gửi không kỳ hạn lên 9%/tháng; còn tiền gửi kỳ hạn 3 tháng là 12%/tháng; lãi suất cho vay phải cao hơn để bù đắp được chi phí vốn. Kết quả là từ mức lạm phát 374.4% năm 1988 đã được kéo giảm còn 95.8% năm 1989 và sau đó còn 36% năm 1990 (IMF).
  • Tháng 3/1989, Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư (SCCI) được thành lập, có chức năng quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, tiếp nhận các dự án FDI do Bộ Kinh tế đối ngoại đã cấp phép và bắt đầu thực hiện các công việc có liên quan đến FDI.

Tân Tỵ 2001: Tiếp tục giảm phát với tỷ lệ -0.4%, giảm nhẹ so với tỷ lệ -1.6% ở năm 2000.

Quý Tỵ 2013:

  • Phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Xoá sổ Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) do những vấn đề liên quan đến hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ, tham nhũng.
  • Ngày 4/10 Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời.
  • Thiên tai khắc nghiệt, đặc biệt là siêu bão Haiyan tháng 11/2013.
  • Ngày 1/11 Việt Nam đạt mốc 90 triệu người, trở thành quốc gia có số dân đông thứ 14 trên thế giới và thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á thời điểm này.
  • Ngày 5/12 Đờn ca tài tử Nam Bộ được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Đọc thêm: Những năm Thìn ấn tượng trong lịch sử Việt Nam

-Việt An-

Vui lòng trích nguồn: "An Hằng's blog" khi đăng lại bài của blog này. Cảm ơn các bạn!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *