Ngắm hải đăng Nhật Lệ bên bờ biển Quảng Bình

Đi dọc con đường Trương Pháp men theo bờ sông Nhật Lệ (Đồng Hới, Quảng Bình cũ), sẽ thấy có ngọn hải đăng nằm trên một vị trí cao ráo vượt trội, bao quanh là những bụi cây thấp rậm rạp. Đó chính là đèn biển Nhật Lệ. Ở vị trí đắc địa với tầm nhìn thông thoáng, hải đăng Nhật Lệ trở thành mắt biển cho những chuyến tàu ra khơi.

Địa chỉ: Hải đăng Nhật Lệ nằm ở số 83 Trương Pháp, thuộc bờ Bắc cửa sông Nhật Lệ, Tp. Đồng Hới, Quảng Bình cũ, nay là phường Đồng Hới, tỉnh Quảng Trị.

1. Trạm đèn biển Nhật Lệ

Ngọn hải đăng đầu tiên được xây dựng từ năm 1890, chất liệu bằng gạch, cao 18m. Những năm tháng chiến tranh hải đăng đã bị phá hủy. Năm 1975 nó được xây dựng lại và trở thành người dẫn đường cho những chuyến tàu từ sông Nhật Lệ ra vào biển Đông một cách an toàn. Điểm đặc biệt nữa là trạm đèn biển Nhật Lệ nằm ngay trên phòng tuyến Nhật Lệ thuộc hệ thống lũy Thầy. Đi hết cầu thang dẫn lên trạm đèn, ngay lối vào cổng nếu rẽ bên phải là đến đền thờ Hoằng quốc công Đào Duy Từ. Phía dưới chân đồi còn có một tấm bia giới thiệu di tích Lũy Thầy.

Lối lên trạm đèn Nhật Lệ.

2. Thông số kỹ thuật hải đăng Nhật Lệ

Hải đăng Nhật Lệ được xây dựng trên mỏm đất gần 17m so với mực nước biển, tại tọa độ 17°29’00.0″N, 106°37’33.3″E. Tháp đèn hình trụ, cao 20m, rộng trung bình 3.6m. Nửa phía trên màu xám trắng, nửa phía dưới màu vàng nhạt, ngăn cách giữa 2 khối màu này là một lan can bao quanh. Đúng 18h hàng ngày, hải đăng được bật lên cho đến 6h sáng hôm sau. Đèn sử dụng ánh sáng trắng chớp nhóm (2+1), chu kỳ 12 giây với tâm sáng 35.5m. Ánh sáng này có tầm hiệu lực 18.9 hải lý (1 hải lý = 1852m).

3. Cửa biển Nhật Lệ

Cửa biển Nhật Lệ là nơi tận cùng của con sông cùng tên, bắt nguồn từ núi U Bò, Co Roi trên dãy Trường Sơn, vòng vèo trên đất liền qua 85km rồi đổ ra biển. Đây là di tích lịch sử và danh thắng cấp quốc gia theo Quyết định số 97/QĐ ngày 21/1/1992 của Bộ VH-TT & DL.

Vượt qua khe hở giữa 2 doi cát đằng xa kia là biển Đông.

Con sông ngày xưa còn được gọi là Trú Nha, Cửa Sài và được đổi tên từ thời nhà Trần. Năm 1306, khi 19 tuổi, Huyền Trân công chúa vâng lời vua cha Trần Nhân Tông và anh trai là vua Trần Anh Tông thực hiện cuộc liên hôn với vua Chế Mân của Champa. Nàng được phong làm hoàng hậu Paramesvari. Người xưa kể rằng, khi thuyền trên hải trình vào đất Champa có dừng chân tại cửa biển Trú Nha. Nhìn về hướng quê nhà dần xa vắng, nàng rơi những giọt lệ nhớ thương nên cửa biển này mang tên Nhật Lệ từ đấy.

Góc nhỏ: Vua Chế Mân (Jaya Simhavarman III) là vị vua thứ 34 của vương quốc Champa, trị vì 1288-1307.

4. Những dấu mốc lịch sử

Cửa biển Nhật Lệ cũng gắn liền với nhiều dấu mốc lịch sử quan trọng. Đặc biệt thế kỷ 11, đây là nơi tranh chấp quyết liệt giữa nhà Đại Việt và nhà Champa. Năm 1044, thủy quân nhà Lý do vua Lý Thái Tông thân chinh chỉ huy đã tập kết ở cửa biển Nhật Lệ, trước khi tiếp tục lên đường vào ngăn cản quân Chiêm Thành quấy rối biên cương phía Nam nước Đại Việt. Năm 1069, vua tôi nhà Lý lại một lần nữa đứng trước thế khó khi nhà Tống ở phương Bắc lăm le xâm lược từ phương Bắc, quân Chiêm Thành ở phương Nam gây bất ổn. Vua Lý Thánh Tông quyết định đánh xuống phía Nam trước khi ngược ra Bắc. Tướng Lý Thường Kiệt nhận lãnh nhiệm vụ tiên phong, còn nhà vua tự mình chỉ huy thủy quân. Khi đến mũi Ma Cô, vụng Hà Não thì đóng quân ở cửa biển Trú Nha. Tại đây, quân Chiêm Thành chặn đánh quân Lý Thường Kiệt nhưng bị thua tan tác. Vua Chế Củ (Yang Pu Sri Rudravarmadeva) của Champa bị bắt, phải dâng 3 châu là Bố Chính (Tuyên Hóa, Quảng Trạch, Bố Trạch – Quảng Bình), Địa Lý (Lệ Thủy và Quảng Ninh – Quảng Bình) và Ma Linh (tỉnh Quảng Trị) để chuộc mạng. Sau trận này, nhờ vào công lao to lớn, Lý Thường Kiệt được phong một số chức vụ khác nhau trước khi lên Thái úy.

Từ cầu thang dẫn lên trạm hải đăng Nhật Lệ, nhìn ra xa là thấy cửa biển Nhật Lệ.

Năm 1470, khi dẫn đoàn thủy binh đi đánh Chiêm Thành ngang qua cửa biển Nhật Lệ, vua Lê Thánh Tông tức cảnh đề thơ “Nhật Lệ hải tấn”. Sau cuộc binh biến này của vua Lê, lãnh thổ Đại Việt kéo dài đến tận Thạch Bi Sơn ngày nay.

Thời kỳ Hậu Lê, suốt nửa thế kỷ Trịnh – Nguyễn phân tranh (1627-1672), bên nào cũng muốn giành lấy cửa biển Nhật Lệ bởi vị trí quan trọng của nó. Nhưng sau khi hệ thống Lũy Thầy được xây dựng xong, quân của chúa Trịnh không thể tiến thêm bước nào trong việc xâm lấn đất của chúa Nguyễn.

Cửa biển Nhật Lệ cũng là nơi thực dân Pháp 2 lần tấn công và đổ bộ vào thành phố Đồng Hới vào ngày 19/7/1885 và 27/3/1947. Ngày 18/8/1954 theo Hiệp định Geneva, Pháp rút khỏi Quảng Bình từ cửa biển Nhật Lệ.

5. Đào Duy Từ và Lũy Thầy

Đào Duy Từ (1572-1634) quê ở làng Hoa Trai, xã Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia; nay là phường Đào Duy Từ, tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên bối cảnh lịch sử đã đưa ông đến với vùng đất Tùng Châu (Hoài Nhơn, Bình Định cũ). Ông là nhà quân sự xuất sắc, chính trị gia mưu lược, nhà thơ, nhà văn hóa… tài ba.

Hải đăng Nhật Lệ nằm trên phòng tuyến Nhật Lệ của lũy Thầy.

Năm 1630, Đào Duy Từ (1572-1634) hiến kế cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên xây dựng Lũy Thầy để bảo vệ vùng đất Đàng Trong. Dù được đắp bằng đất nhưng đây là hệ thống lũy liên hoàn với nhiều tầng lớp kiên cố phòng thủ vững vàng, kéo từ trên núi xuống biển, ngăn cách 2 Đàng. Chúa Trịnh đã nhiều lần đem quân tấn công vào Đàng Trong nhưng đều thất bại tại Lũy Thầy. Vì vậy dân gian mới có câu: “Khôn ngoan qua được Thanh Hà. Dẫu rằng có cánh khó qua Lũy Thầy”.

Lũy Thầy có 3 phòng tuyến nổi bật là phòng tuyến Trường Dục, Nhật Lệ và Trường Sa với hào nước tự nhiên là sông Gianh.

  • Phòng tuyến Trường Dục: Năm 1630 Đào Duy Từ đích thân chỉ huy xây lũy Trường Dục kéo từ chân núi Thần Đinh, chạy dọc sông Thạch Khê (Rào Đá) và sông Kiến Giang, kéo dài đến phá Hạc Hải. Tổng chiều dài khoảng 9km, cao 3m, rộng 6m; có đoạn ngoằn ngoèo như chữ Hồi nên còn được gọi là lũy Hồi Văn.
  • Phòng tuyến Nhật Lệ: gồm lũy Đầu mâu và lũy Trấn Ninh. Năm 1631 Đào Duy Từ và tướng Nguyễn Hữu Dật đi thị sát rồi tiếp tục xây lũy Đầu Mâu, kéo dài từ chân núi Đầu Mâu, chạy dọc sông Lệ Kỳ đến cầu Dài ở phía Nam thành Đồng Hới. Dài 12km, cao 6m; mỗi trượng đặt 1 khẩu súng quá sơn, cách 3-5 trượng có 1 pháo đài, đặt 1 khẩu súng nòng lớn. Tiếp nối là lũy Trấn Ninh (lũy Nhật Lệ, lũy Động Hải) bắt đầu từ cầu Dài đến phía tây thành Đồng Hới rồi kết thúc ở cửa sông Nhật Lệ.

Tấm bia đá đánh dấu lũy Thầy.

  • Phòng tuyến Trường Sa: Năm 1634, tướng Nguyễn Hữu Dật được lệnh đắp thêm lũy Trường Sa dọc làng cát Bảo Ninh. Dài 7km.

Năm Minh Mạng thứ 12 (1841), Lũy Thầy được sắc phong làm “Định Bắc Trường Thành” và Đào Duy Từ được truy phong làm Khai Quốc Công Thần.

-Việt An-

Vui lòng trích nguồn: "An Hằng's blog" khi đăng lại bài của blog này. Cảm ơn các bạn!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *